PDF letöltése
Vissza a történetek listájához

Gà mái và Đại bàng A tyúk és a sas

Írta Ann Nduku

Ilusztrálta Wiehan de Jager

Fordította Phuong Nguyen

Nyelv vietnámi

Szint 3. szint

A teljes szöveg felolvasása A hang jelenleg nem érhető el.


Ngày xửa ngày xưa, Gà mái và Cuốn chiếu là bạn của nhau. Họ sống trong hòa bình cùng tất cả các loài chim khác. Không loài chim nào có thể bay được cả.

Egyszer régen a tyúk és a sas barátok voltak. Békében éltek együtt a többi madárral. Egyikük sem tudott repülni.


Một ngày nọ, trên mặt đất có hạn hán. Đại bàng phải đi bộ rất xa để tìm thức ăn. Bạn ấy trở về và rất mệt mỏi. Đại bàng nói: “Chắc chắn phải có cách đi lại dễ hơn!”

Egy nap éhínség tört ki a földön. A sasnak sokáig kellett mennie, hogy élelmet találjon. Nagyon fáradtan tért vissza. “Biztos, hogy egyszerűbben is lehet utazni!” - mondta a sas.


Sau một đêm ngủ ngon, gà mái có một ý tưởng tuyệt vời. Bạn bắt đầu nhặt những cọng lông rơi từ những bạn chim khác. Gà mái nói: “Hãy kết những cọng lông này lại lên lông của chúng ta. Có thể điều này sẽ làm việc đi lại dễ dàng hơn.”

Másnap a tyúknak csodálatos ötlete támadt. Összegyűjtötte a madár barátainak lehullott tollait. “Varrjuk rá ezeket a tollakat a saját tollainkra” - mondta - “Talán így könnyebben tudunk majd utazni.”


Đại bàng là người duy nhất trong làng có kim, nên bạn ấy bắt đầu kết lông trước. Bạn ấy làm cho mình một bộ cánh tuyệt vời và bay cao lên trên Gà mái. Gà mái mượn cây kim, nhưng chẳng mấy chốc, bạn ấy đã chán việc may vá. Bạn bỏ cây kim trên tủ và đi vào bếp để chuẩn bị thức ăn cho các con của mình.

Az egész faluban csak a sasnál volt tű, ezért ő kezdett el először varrni. Gyönyörű szárnyakat készített magának, és a tyúk fölé repült. A tyúk kölcsönkérte a tűt, de hamar belefáradt a varrásba. A szekrényen hagyta a varróeszközt és a konyhába ment, hogy ételt készítsen gyermekeinek.


Nhưng các loài chim khác thấy Đại bàng bay đi. Họ bèn hỏi mượn kim từ Gà mái để làm cánh cho mình. Chẳng mấy chốc, chim bay khắp trời.

Minden madár látta, hogy milyen szépen repül a sas. Kölcsönkérték a tűt a tyúktól, hogy ők is szárnyakat készíthessenek maguknak. Hamarosan az ég tele lett repülő madarakkal.


Khi con chim cuối cùng trả kim, Gà mái không có ở đó. Vì thế, các con của Gà mái lấy kim ra chơi. Khi chúng chán rồi, chúng bèn để cây kim trên cát.

Amikor az utolsó madár visszavitte a tűt, a tyúk éppen nem volt otthon. A gyerekei vették át a varrótűt és játszani kezdtek vele. Amikor elfáradtak a homokban hagyták.


Cũng buổi chiều đó, Đại bàng trở về. Đại bàng muốn lấy lại kim để sửa lại những cọng lông đã bị lỏng ra trong chuyến đi cũng mình. Gà mái tìm trên tủ. Bạn ấy tìm trong nhà bếp. Bạn ấy tìm trong sân, nhưng mãi vẫn không tìm thấy cây kim.

A sas késő délután visszatért és kérte a tűt, hogy megigazíthasson néhány az útja során meglazult tollat. A tyúk kereste a szekrényen, kereste a konyhában, kereste az udvaron, de a tűt sehol sem találta.


Gà mái năn nỉ Đại bàng: “Hãy cho mình một ngày nữa. Sau đó, bạn có thể sửa cánh của bạn và bay đi tìm thức ăn nữa.” Đại bàng nói: “Chỉ một ngày nữa thôi nhé. Nếu bạn không tìm thấy kim, bạn sẽ phải cho tôi một con gà con để trả nợ đấy.”

“Kérlek adj még egy napot!” - kérlelte a sast - “Akkor majd megjavíthatod a szárnyadat és elrepülhetsz élelemért.” “Csak egy napot adok.” - mondta a sas - “Ha nem találod meg a tűt, az egyik csibédet nekem kell adnod fizetségként.”


Khi Đại bàng trở lại vào ngày hôm sau, bạn ấy thấy Gà mái đang bới trong cát, nhưng vẫn không có kim. Vì thế, Đại bàng bay xuống rất nhanh và bắt mất một con gà con. Bạn mang gà con bay mất. Kể từ đó, mỗi lần Đại bàng xuất hiện, bạn ấy đều thấy Gà mái bới cát tìm kim.

Másnap, amikor a sas visszatért, látta, hogy a tyúk a földet kapirgálja, de a tű nem volt sehol. Leereszkedett, gyorsan elkapott egy csibét és magával vitte. Ettől a naptól kezdve, valahányszor megjelenik a sas az égen, látja, hogy a tyúk kapirgálva keresi a tűt.


Khi bóng của cánh Đại bàng in lên mặt đất, Gà mái cảnh báo các con mình: “Hãy chạy ra khỏi khu đất trống và khô cằn”. Và gà con trả lời: “Bọn con không phải là kẻ ngốc. Bọn con sẽ chạy.”

Amint a tyúk meglátja a sas árnyékát a földön, így figyelmezteti a csibéit: “Meneküljetek be!” És ők így válaszolnak: “Nem vagyunk bolondok. Futunk.”


Írta: Ann Nduku
Ilusztrálta: Wiehan de Jager
Fordította: Phuong Nguyen
Nyelv: vietnámi
Szint: 3. szint
Forrás: Hen and Eagle az African Storybook
Creative Commons License
Ez a mű a Creative Commons Nevezd meg! 3.0 Licenc feltételeinek megfelelően felhasználható.
Opciók
Vissza a történetek listájához PDF letöltése